Bad Life Novel - Chương 2
Thỉnh thoảng tôi nằm ngược trên giường, chân vắt lên đầu giường, xem cùng Simon bộ phim cậu đang bật trên màn hình. Ban đầu Simon đeo tai nghe, nhưng khi nhận ra tôi thường xem ké sau lưng, từ lúc nào đó cậu bắt đầu bật loa ngoài.
Hugh thấp hơn tôi và Simon vài centimet, nhưng thân hình rắn chắc. Cũng phải thôi, trước đây cậu ta từng là vận động viên bơi lội triển vọng, từng vô địch giải trẻ. Bờ vai rộng, cơ bắp phát triển mượt mà. Dù không còn thi đấu, cậu ta vẫn bơi ở bể của trường, còn giờ thì đặt mục tiêu vào Cambridge.
Hugh là một người hòa đồng và hoạt bát. Tôi thân với Hugh hơn Simon, thật ra ai cũng thân với cậu ta cả. Hugh bắt chuyện với cả ông quản lý nghiêm nghị, đùa giỡn với hầu hết học sinh, thân thiết cả với giáo viên lẫn nhân viên trường, nên thường xuyên nhận được quà từ ai đó.
Cậu ta là người không thích ràng buộc. Cách ăn mặc, hành xử đều thoải mái, tự do, lại thường la cà phòng người khác đến gần nửa đêm mới về. Sống cùng với cậu, tôi quen với cảnh Hugh cởi trần nằm trước lò sưởi, viết luận hay đọc sách. Trong ba người, Hugh là người tôi có cảm tình nhất, đặc biệt là vì cậu hay cười.
George là người cao nhất, nhưng cũng gầy nhất. Nước da nhợt nhạt, đôi mắt xanh nhạt khiến cậu trông yếu ớt và u uất. Cậu hiếm khi đến lớp, cũng chẳng mặc đồng phục. Lúc nào cũng trong chiếc áo len đen, quần vải phẳng phiu và đôi dép, ngồi trước lò sưởi với chiếc laptop.
Tôi chẳng rõ cậu ta làm gì. Màn hình đầy những dòng mã và công thức phức tạp, nên tôi đoán George là một kiểu lập trình viên hoặc hacker nào đó. Một lần tôi ghé vào phòng cậu và Hugh, thấy bốn cái màn hình và vài thùng máy tính, nên từ đó tôi mặc định George là một người như vậy. Còn tôi thì chỉ đủ trình chơi game thẻ bài trên máy tính mà thôi.
Mặc dù mê máy tính, George lại là một người khá hoạt ngôn. Cậu ta đáp lại từng câu đùa của Hugh, hai người hợp nhau kỳ lạ, nên dễ hiểu vì sao họ ở cùng phòng. Ban đầu tôi và George hầu như chẳng nói chuyện, nhưng nhờ cái cách cậu ta nói nhiều, chúng tôi dần trở nên thân quen. Chính George là người kể cho tôi nghe mọi thứ về Simon, Hugh, và chính cậu ta nữa. À, còn một người nữa.
Giờ thì, chúng ta phải nói đến <Jerome>.
Từ khi bắt đầu sống ở ký túc, tôi không thể không biết đến <Jerome>. Ngày nào, đúng bốn giờ chiều, hắn cũng xuất hiện ở phòng chúng tôi rồi ngồi trước lò sưởi đối diện George để trò chuyện. Đôi khi nói chuyện với Simon, hôm nào Hugh về sớm thì cả hai cùng buôn chuyện. Toàn mấy chuyện vặt vãnh, nào là tin tức trường học, chuyện chính trị, giới giải trí, bóng đá, trò chơi. Và đúng sáu giờ thì hắn rời đi.
Phòng của <Jerome> nằm ở hành lang bên phải cùng tầng với chúng tôi. Hắn ở một mình. George bảo là do thiếu học sinh, nhưng tôi không tin. Ngay từ lần đầu gặp, tôi đã cảm thấy không ưa <Jerome>. Dáng người và chiều cao gần như tôi, nhưng ở hắn lại toát ra thứ khí thế mạnh mẽ, lấn át. Cơ thể săn chắc, nhanh nhẹn của một người cưỡi ngựa thường xuyên, đôi tay lớn hơn người thường.
Vì tập cưỡi ngựa mỗi ngày, hắn thường mặc đồ cưỡi ngựa, quần trắng bó sát, bốt đen, áo sơ mi trắng cởi hờ cổ, tay cầm roi da. Tôi đặc biệt ghét cây roi ấy. <Jerome> hay “đùa” bằng cách dùng sợi dây da hất cằm Hugh lên, và cảnh đó khiến tôi cực kỳ khó chịu.
Không phải <Jerome> đánh ai bằng roi. Sau giờ cưỡi ngựa, hắn chỉ tiện đường ghé qua phòng chúng tôi, đặt cây roi lên đùi, hoặc thỉnh thoảng nghịch ngợm xoay vòng dây da giữa các ngón tay. Dù vậy, với vẻ ngoài mạnh mẽ của <Jerome>, việc hắn cầm cái roi khiến tôi không hề thấy thoải mái.
<Jerome> từng vài lần tỏ ý muốn thân với tôi. Hắn chủ động chào hỏi, trò chuyện mỗi khi gặp trong trường. Nhưng khi thấy tôi giữ khoảng cách, <Jerome> cũng hiểu ý và thôi không cố nữa.
Dù vậy, thỉnh thoảng tôi đang đọc sách, khi ngẩng đầu lên lại bắt gặp ánh mắt hắn nhìn chằm chằm mình. Những lúc như vậy, tôi thường gấp sách lại và chạy trốn vào phòng. Ở đó, Simon thường đang xem phim, và kỳ lạ là chỉ cần thấy cậu ấy, tôi lập tức thấy yên lòng.
Với tôi, Jerome là một kẻ khiến người ta thấy bất an. Gương mặt trơn láng không thể đoán, căn phòng riêng biệt một mình — tất cả đều gợi cảm giác mờ ám, khó tin.
Trừ việc không ưa Jerome, mọi chuyện ở trường diễn ra khá suôn sẻ.
Sau khi cha mất, tôi không được đến trường mà sống cùng Julia. Tôi học ở nhà, hầu hết thời gian đều bị giam trong căn biệt thự. Julia không muốn ai biết đến sự tồn tại của tôi. Tôi đã bối rối trước cuộc sống xa hoa đột ngột ập đến, và vì quá đau buồn sau khi mất cha, tôi đã hành động theo ý Julia.
Đã có lúc tôi dựa dẫm vào Julia chỉ vì sợ rằng nếu cả bà ấy cũng bỏ rơi, thì tôi thật sự chỉ còn lại một mình trên thế gian này. Nhưng theo thời gian, nỗi đau mất cha dần mòn đi, và tôi bắt đầu nhận ra sự thật.
Từ khi cha qua đời, tôi vốn dĩ đã cô độc. Julia và tôi chẳng là gì của nhau. Tôi chỉ như một con vật bị nuôi nhốt trong ngôi nhà ấy. Bà lấy cớ “dạy học tại nhà” để không cho tôi đến trường, viện lý do đất nước xa lạ để cấm tôi ra ngoài, và dần dần, sự kiểm soát đó biến thành một dạng giam cầm thật sự.
Tất nhiên, tôi sẽ trả thù Julia vì những gì bà ấy đã làm với mình. Tôi không biết chuyện gì từng xảy ra giữa bà và cha, cũng chẳng muốn biết. Cha tôi là công nhân làm việc trong nhà máy gạch, nghèo nhưng hiền lành, và hai cha con vẫn sống hạnh phúc theo cách của riêng mình.
Dù Julia có viện bất cứ lý do nào, thì sự thật vẫn không thay đổi đó chính là bà đã giam tôi suốt năm năm trời. Tôi đã dành cả năm qua để nghĩ cách trả thù, cho đến khi cuối cùng được đưa đến ngôi trường này.
Thông thường, học sinh ở đây chỉ sống nội trú khoảng một năm rồi thi đại học, sau đó rời trường. Nhưng Julia viện cớ “kết quả học tại nhà chưa đủ tốt”, bắt tôi học ở ngôi trường hẻo lánh này thêm hai năm. Thế là tôi bị giam trong Bluebell, giữa vùng quê hẻo lánh này. Tôi đến đây đầy oán hận, nhưng cuộc sống ở trường lại yên bình hơn tôi nghĩ.
Đã năm năm rồi tôi mới gặp lại những người cùng tuổi. Trong suốt thời gian bị giam, tôi chỉ thấy vài người hầu, người nhà Julia, và thư ký của bà. Tôi đã có chút lo lắng nhưng không ai trong số học sinh ở đây tỏ ra xa lạ với tôi. Họ tiếp nhận tôi một cách tự nhiên, như thể tôi vốn dĩ đã là một phần trong họ. Các lớp học cũng bình thường. Chúng tôi được học giáo dục phổ thông bình thường vì chúng tôi không phải chuẩn bị cho các kỳ thi tuyển sinh vào Oxford, Grande École hay trường nghệ thuật gì cả.
Tôi học văn học Anh và lần đầu tiên cảm nhận được niềm vui của việc học. Tôi thích đọc sách. Thỉnh thoảng chơi bóng, đi dạo trong rừng, hoặc chơi với những con chó được nuôi trong chuồng ngựa cũng vui.
Tôi không thể gọi ai trong số họ là “bạn”. Simon, Hugh, hay George đều có khoảng cách nhất định. Nhưng sáng nào Simon cũng mang bữa sáng cho tôi, trưa thì ăn cùng Hugh hoặc Simon, tối thì luôn ăn cùng Simon hoặc George. Rồi chẳng biết từ khi nào, họ trở thành gia đình xa lạ nhưng ấm áp.
Sau bữa tối, Simon thường đi dạo, nên tôi thường ở lại với George. Mọi điều tôi biết về bầu không khí kỳ lạ của trường đều là do George nói ra.
Cậu nói:
“Ở trường này, không có ai có cha mẹ bình thường cả. Không có ai bình thường hết.”
Tôi gật đầu.
George tháo kính trên sống mũi xuống rồi hỏi:
“Cậu cũng chẳng có ai gọi là cha mẹ đúng nghĩa, đúng không?”
Tôi không trả lời.
George nhìn tôi bằng đôi mắt xanh nhạt gần như trong suốt:
“Không ai ngoài kia bảo vệ cậu, đúng chứ?”
Tôi nhìn George. Cậu ta hỏi như thể muốn xác nhận điều gì. Tôi im lặng giây lát, rồi quay ra cửa sổ. Bên kia lớp kính mờ hơi lạnh là khoảng tối nhập nhòa. Bên ngoài khung cửa sổ đó, tôi không có nơi nào để đi ngoài mộ của cha. Tôi gật đầu khẽ.
“Không có.”
George mỉm cười rất nhẹ.
“Vậy thì, cậu đến đúng chỗ rồi.”
***
Tôi nhận ra ý nghĩa thật sự của câu nói ấy là vào hai tuần sau đó.
Giữa tháng Năm, thời tiết đã trở nên khá ấm áp. Không cần khoác thêm áo choàng bên ngoài đồng phục mà vẫn không thấy lạnh. Hôm ấy là cuối tuần, hầu hết học sinh đều xin phép ra ngoài để đi chơi ở thành phố lân cận tên là Gorun. Simon, Hugh, thậm chí cả George cũng không ngoại lệ. Simon nói rằng người vú nuôi đến thăm, nên cậu ấy định ở khách sạn tại Gorun suốt cuối tuần. Hugh thì đi từ sớm, đến mức tôi chẳng kịp nhìn thấy mặt cậu ta. Còn George nói có vài thứ cần mua nên cũng ra ngoài.
Có vẻ trong ký túc xá chỉ còn lại mỗi mình tôi. Dù vẫn có vài nhân viên ở lại trong trường, nhưng họ đều đóng kín trong tòa nhà, không thấy bóng dáng đâu. Mãi đến gần trưa, tôi mới thong thả ra khỏi ký túc xá. Trong tay gần như chẳng còn đồng nào, mà thực ra tôi cũng chẳng có việc gì để làm ở Gorun, nên đành chọn cách dạo quanh ngôi trường trống trải. Tôi ghé qua chuồng ngựa, rồi mượn chiếc xe đạp của người giữ ngựa để đạp loanh quanh trong rừng. Khi trở về thì trời đã gần trưa.
Tôi ăn trưa đơn giản trong nhà ăn, rồi ngồi ngoài sân ngắm khung cảnh trường học. Dù từng sống trong biệt thự xa hoa, nhưng do những năm tháng bị giam cầm quá lâu, việc chỉ được nhìn thấy khung cảnh rộng mở như thế này thôi cũng trở thành một niềm vui đối với tôi. Tôi trở lại ký túc xá vào khoảng năm giờ chiều. Khi mở cửa phòng bằng chìa khóa, tôi nhìn thấy có ai đó đang ngồi trước lò sưởi. Mái tóc đen, nên tôi tưởng đó là Simon.
Tôi lên tiếng trước.
“Cậu về sớm nhỉ, Simon. Không phải cậu nói sẽ ở lại Gorun cuối tuần sao?”
Cái đầu đen ấy quay lại.
“Đúng vậy. Simon sẽ ở lại Gorun.”
Không phải Simon, đó là Jerome. Tôi khựng lại, nhìn hắn chằm chằm. Jerome tự tiện vào phòng chúng tôi mà chẳng xin phép ai. Có lẽ hắn đến như mọi khi, vào khoảng bốn giờ. Một tên đáng ngờ và gây khó chịu.
Jerome mỉm cười và ngoắc tay ra hiệu tôi lại gần. Tôi thoáng nghĩ đến việc bỏ qua và đi thẳng vào phòng, nhưng làm vậy thì quá bất lịch sự. Dù sao Jerome cũng chơi thân với ba người bạn cùng phòng của tôi. Tuy vậy, tôi vẫn cố giấu không thoải mái mà ngồi xuống ghế đối diện. Hắn vẫn mặc đồ cưỡi ngựa, trên đùi đặt cây roi da mà tôi ghét cay ghét đắng.
Jerome hỏi:
“Cậu đã đi chơi về rồi à?”
“Không. Tôi không đi đâu cả.”
Bị đáp lại bằng giọng lạnh nhạt nhưng Jerome vẫn mỉm cười. Rồi hắn lại hỏi:
“Sao không đi Gorun?”
Tôi hỏi lại:
“Thế còn cậu? Sao cậu không đi? Làm sao cậu vào được đây? Cậu có chìa khóa phòng tôi à?”
Jerome nheo mắt nhìn tôi, vẫn giữ nụ cười trên môi.
“Tôi không đi vì còn phải luyện cưỡi ngựa. Và đúng vậy, tôi có chìa khóa.”
Tôi cau mặt, giọng khó chịu hiện rõ.
“Sao cậu lại có chìa khóa phòng chúng tôi?”
Jerome thẳng lưng, rời khỏi tư thế dựa lưng vào sofa. Chỉ thế thôi mà tim tôi bỗng căng thẳng, cổ họng khô khốc. Hắn nhẹ giọng đáp:
“Người từng ở phòng này trước đây đưa cho tôi.”
Giọng nói ấy vừa dịu dàng vừa lịch thiệp, nhưng trong đó ẩn chứa điều gì đó nguy hiểm. Tôi không thể chỉ ra chính xác lý do, nhưng linh cảm mách bảo rằng có điều gì rất bất thường. Tôi bật dậy khỏi sofa. Khoảnh khắc tôi định nói điều gì đó với Jerome thì hắn bất ngờ quật chiếc roi da ngựa về phía tôi với một tốc độ cực nhanh như sấm sét.
Roi quất mạnh vào đùi tôi. Ban đầu tôi không hiểu chuyện gì xảy ra, nhưng khoảnh khắc ấy chỉ kéo dài một giây. Khi nhận ra, nơi bị đánh đã bỏng rát đến tê dại. Cơn đau ập đến nhanh đến mức nước mắt trào ra trước cả tiếng hét. Máu dồn lên mặt và cổ. Tôi ngã xuống sàn, ngay lập tức bị hắn quất thêm một roi nữa vào lưng. Lúc đó, tiếng hét mới bật ra:
“Á—aaahhh!!”
 
                                         
                        
                     
                        
                     
                        
                     
                        
                     
                        
                     
                        
                     
                        
                     
                        
                     
                        
                     
                        
                     
                        
                     
                        
                     
                        
                     
                        
                     
                        
                     
                        
                     
                        
                     
                        
                     
                        
                     
                        
                     
                                     
                                     
                                    