Diamond Dust Novel (Bụi Kim Cương) - Chương 153 - Vol 5
1. Thành phố của gió
Từ cửa sổ phòng ngủ của anh nhìn ra, đối diện ngay với Đại lộ Bắc Michigan, là tòa tháp John Hancock nổi tiếng, nơi được mệnh danh là địa điểm lý tưởng nhất để chiêm ngưỡng toàn cảnh Chicago cùng với tòa tháp Willis ngay trước mắt.
Phòng khách rộng lớn với những ô cửa sổ hướng về phía Bắc và phía Đông mang lại tầm nhìn thoáng đãng và mát mắt hơn hẳn. Phía sau tháp John Hancock, vượt qua những tòa nhà của chuỗi khách sạn danh tiếng thế giới khác, đường chân trời của hồ Michigan hiện ra mênh mông tựa như biển cả, và chếch về phía Đông, Bảo tàng Nghệ thuật Đương đại Chicago cũng nằm ngay gần đó.
Còn trong phòng tôi, một phòng ngủ khác nằm cùng trong căn suite với anh, qua những khung cửa sổ hướng Nam và hướng Đông, tôi có thể nhìn thấy ngay khung cảnh hào nhoáng của con phố mua sắm lừng danh Magnificent Mile.
Việc anh và tôi ở chung một căn suite khiến chị Yuni thoáng lộ vẻ ngạc nhiên, nhưng có lẽ chị ấy đã tự mình đi đến kết luận rằng: cả phòng ngủ lẫn phòng tắm đều có hai cái, nên chẳng việc gì phải thuê thêm một phòng riêng nữa cho phí phạm, thế nên chị cũng nhanh chóng gật đầu đồng tình. Có lẽ vì quá phấn khích trước món quà bất ngờ mà anh đã chuẩn bị là vé máy bay hạng nhất và phòng khách sạn năm sao nên những nghi hoặc cỏn con ấy đã dễ dàng bị chị gạt sang một bên.
Đoàn công tác lần này gồm năm người: tác giả Shushu, chị Yuni, anh và tôi, cùng với bác tài xế. Nhờ sự chu đáo của anh, cả năm người đều được tận hưởng chuyến đi thoải mái trên khoang hạng nhất. Nghe chị Yuni bảo vé khứ hồi hạng nhất đi Chicago có giá khoảng 12 triệu won, tôi nghe mà lòng dạ chẳng thể nào yên ổn nổi.
Dù sao thì trái ngược với tôi đang căng thẳng đến mức cứ phải lén nhìn sắc mặt chị Yuni, anh lại chẳng mảy may bận tâm đến hoàn cảnh xung quanh. Thay vì làm thủ tục tại quầy lễ tân, anh ngồi ký giấy tờ check-in ngay trên ghế sofa trong phòng khách của căn suite với vẻ thản nhiên vô cùng.
Bác tài xế thì không nói làm gì… nhưng cả tác giả Shushu và chị Yuni vẫn đang ngồi lù lù trong cùng một phòng khách, vậy mà anh vẫn thản nhiên chạm vào tóc tôi, hỏi về lịch trình buổi chiều bằng chất giọng đặc biệt dịu dàng. Hại tôi cứ phải đảo mắt liên hồi, trả lời thì lắp ba lắp bắp.
Có lẽ anh nghĩ rằng cứ để mọi chuyện lộ ra một cách tự nhiên như thế này cũng chẳng sao. Nghĩ lại thì nếu bây giờ chúng tôi trịnh trọng tuyên bố rằng “thực ra chúng tôi đang hẹn hò”, cảm giác cũng có phần hơi phô trương thật.
Tôi chợt nhớ đến lời khuyên của anh Juhan, rằng anh không phải là đối tượng tốt để yêu đương, rằng nếu chỉ là cơn cảm nắng non nớt thì hãy mau chóng dập tắt đi. Không biết nếu anh Juhan biết tôi rốt cuộc vẫn lao đầu vào yêu đương với đối tượng mà anh ấy từng cảnh báo thì sẽ phản ứng thế nào đây? Còn chị Yuni và Trưởng phòng Han nữa…
Cảm thấy bản thân thật kỳ cục khi cứ mải lo nghĩ vẩn vơ về chuyện tình cảm, tôi phồng má thở hắt ra một hơi… rồi cầm lại cây bút chì. Tôi đang phác họa khung cảnh hoàng hôn buông xuống trung tâm Chicago. Ngồi bên cửa sổ phòng ngủ của anh, đợi anh tắm xong.
“Vậy là, suốt cả buổi chiều em chỉ ở Bảo tàng Nghệ thuật Chicago thôi sao?”
Anh bước ra từ phòng tắm nối liền với phòng thay đồ bên trong phòng ngủ, trên người khoác hờ chiếc áo choàng tắm, vừa nhìn tôi vừa mỉm cười hỏi. Chỉ một cử động đời thường là dùng khăn bông lau nhẹ mái tóc đang ướt thôi, mà nực cười thay tim tôi cũng đập rộn ràng.
Kế hoạch tôi nói với anh trước đó nghe chừng rất hoành tráng, giờ nghĩ lại thấy hơi ngượng nên tôi chỉ gật đầu, mỉm cười trừ.
Anh tựa người vào bức tường ngay lối vào phòng thay đồ dài hun hút như một hành lang, hai tay thọc vào túi áo choàng.
“Vì quy mô của nó khác hẳn các phòng tranh thông thường mà.”
Đúng như lời anh nói.
Dù danh hiệu “một trong ba bảo tàng nghệ thuật lớn nhất nước Mỹ” ban đầu không quá hấp dẫn, nhưng tôi nghĩ hẳn phải có lý do gì đó khiến nơi đây trở thành điểm đến bắt buộc ở Chicago, thành phố vốn đã có vô số phòng tranh đa dạng hoạt động sôi nổi. Vì thế, tôi chọn nơi này là điểm đến đầu tiên. Bảo tàng sở hữu khoảng 300.000 tác phẩm, được chia thành hai tòa nhà chính: tòa nhà cũ và tòa nhà mới.
“Em đã cố gắng xem thật nhanh rồi mà vẫn… chưa đi hết tầng 1 và tầng hầm của tòa nhà chính, khu nhà phụ thì còn chưa kịp ghé qua nữa.”
Chúng tôi đến sân bay O’Hare khoảng 10 giờ sáng, check-in khách sạn xong cũng đã giữa trưa. Tác giả Shushu là nhân vật chính của chuyến đi, cùng với anh và chị Yuni có lịch họp ngay với bên phòng tranh tổ chức triển lãm nên chẳng kịp nghỉ ngơi.
Trong lúc họ chuẩn bị cho buổi tiệc khai mạc dành cho VIP vào buổi tối, tôi dự định sẽ đi thăm thú Bảo tàng Nghệ thuật Chicago và thêm hai phòng tranh gần đó nữa.
Nhưng đúng là một lịch trình quá sức, chỉ riêng Bảo tàng Nghệ thuật thôi tôi còn chưa đi hết.
Thấy bộ dạng hiếm khi lộ vẻ tiếc nuối của tôi có vẻ thú vị, anh nghiêng đầu nhìn một lúc rồi tinh nghịch ngoắc ngón trỏ, sau đó đi vào trong phòng thay đồ trước. Tôi ngừng việc suy nghĩ xem làm thế nào để diễn tả ánh đèn đô thị rực rỡ khi ánh sáng tự nhiên tắt dần chỉ bằng những nét ký họa, rồi đứng dậy đi theo anh vào trong.
Anh đang đứng trước tủ quần áo trong cùng để chọn trang phục dự tiệc. Tôi ngồi ghé mông lên chiếc ghế băng bọc nhung đặt giữa tủ ngăn kéo và chiếc gương toàn thân, ngay đối diện cửa phòng tắm.
“Thế nào? Nếu là Seo Yihyun thì chắc sẽ thích tầng 2 của tòa nhà chính nhất nhỉ.”
Tôi đưa tay gãi gáy, bật cười trước dự đoán chính xác của anh. Tầng 2 tòa nhà chính mà anh nói là nơi trưng bày các tác phẩm hội họa châu Âu từ thế kỷ 15. Ở đó có rất nhiều tác phẩm quen thuộc mà tôi từng thấy trong tập tranh của bố mẹ trước đây. Ngày bé, tôi chỉ xem tranh như đứa trẻ xem hình minh họa trong sách mà chẳng bận tâm đến tên tác giả hay tác phẩm, nhưng lần này thì khác.
Tôi nán lại thật lâu trước những bức tranh mình hứng thú, chụp lại tác phẩm và chú thích vào điện thoại (Bảo tàng Nghệ thuật Chicago cho phép chụp ảnh), khắc ghi tên những họa sĩ đã để lại ấn tượng mạnh mẽ vào trí nhớ.
Picasso, Monet, Rembrandt… Dù tôi có thiếu hiểu biết đến đâu thì cũng từng nghe qua những cái tên ấy, chỉ là không biết đó là tranh của họ. Tôi đã đứng lặng rất lâu trước những kiệt tác đó.
Ngay cả trong một nét vẽ cũng cảm nhận được nội công thâm hậu được tôi luyện qua vô số lần thực hành của những người sẵn sàng cầm cố cả cuộc đời mình vào hội họa suốt bao năm tháng. Những màu sắc và nét cọ đạt đến cảnh giới mà những kỹ xảo nông cạn hay sự bắt chước vụng về không thể nào chạm tới, cái chiều sâu chỉ dành cho những kẻ đã dâng hiến thời gian không chút giả dối ấy khiến tôi thậm chí cảm thấy có chút kính cẩn. Họ chắc chắn không phải là những họa sĩ chỉ nhờ may mắn mà được đánh giá cao sau khi qua đời.
“Thực ra, em là người coi trọng nội dung hơn hình thức nên trước giờ rất khó cảm thụ nghệ thuật hiện đại với nhiều tác phẩm phá cách. Thế nên trong vô thức em cứ hay né tránh nó. Nhưng hôm nay đi xem triển lãm… em nhận ra rằng không phải cứ nghệ thuật hiện đại là họa sĩ nào cũng cố dùng hình thức phá cách để truyền tải thông điệp. Nghĩ kỹ thì, việc có nhiều họa sĩ với phong cách khác nhau là chuyện đương nhiên… Có lẽ do kiến thức hạn hẹp nên em đã có định kiến.”
Tôi vừa thú nhận, vừa dán mắt vào tấm lưng trần khi anh trút bỏ áo choàng, mặc vào chiếc quần boxer màu đen ôm trọn lấy phần đùi trên săn chắc. Mặc xong đồ lót, anh đứng trước tấm gương trên tủ ngăn kéo chỉ soi nửa thân trên để vuốt tóc, còn tôi thì tì thái dương vào cạnh tủ ngước nhìn anh.
Tôi kể cho anh nghe về bức Nighthawks của Edward Hopper, một trong số ít họa sĩ hiện đại khiến tôi ấn tượng.
Dù hoàn toàn là cảm nhận cá nhân, nhưng bố cục đường thẳng dài táo bạo cắt ngang toan vẽ dường như không chỉ là hình thức gây ấn tượng thị giác, mà là một hình thức đã qua trăn trở của tác giả để truyền tải nội dung một cách hiệu quả nhất. Với một người vì quá chú trọng nội dung mà vô tình lơ là hoặc xem nhẹ hình thức như tôi, tác phẩm ấy mang lại cảm giác mới mẻ như vừa tìm thấy một lối thoát nhỏ.
Dù đó có là những kiến thức phổ thông ai cũng biết, nhưng với một kẻ bấy lâu nay chỉ tự nhốt mình trong thế giới hội họa của riêng bản thân như tôi, thì từng sự giác ngộ ấy đều vô cùng quý giá.
Cảm giác như quay lại thời thơ ấu, cái thời cùng vẽ tranh với Trưởng phòng Han. Sự phấn khích của những ngày tháng ấy, khi trò chơi nhìn ngắm và tái hiện thế giới qua tranh vẽ, rồi từ đó lại tiếp xúc với một thế giới mới, lại đang phân chia và nảy nở trong cơ thể tôi.
Chải tóc xong, anh khoác chiếc áo sơ mi có xếp nếp trước ngực, tựa lưng vào tủ quần áo đối diện lắng nghe tôi nói, rồi nghiêng đầu bảo:
“Thấy em hứng thú với một họa sĩ đậm chất Mỹ như Edward Hopper kể cũng lạ… Nhưng nghĩ lại thì cũng chẳng lạ lắm.”
“……”
“Bởi vì niềm tin của Edward Hopper là nghệ thuật vĩ đại là sự biểu hiện xuất sắc thế giới nội tâm của người nghệ sĩ.”
Anh cười rạng rỡ, kể thêm cho tôi nghe những câu chuyện thú vị liên quan đến Hopper. Về những bộ phim lấy cảm hứng hoặc tri ân tác phẩm của ông như Shirley: Visions of Reality, Carol, hay tuyển tập truyện ngắn In Sunlight or in Shadow được viết bởi mười bảy nhà văn lấy cảm hứng từ tranh của ông.
“Ở Bảo tàng Mỹ thuật Boston có trưng bày tác phẩm Room in Brooklyn của Hopper đấy. Nếu em thích, trong chuyến đi này chúng ta có thể dành chút thời gian ghé xem.”
Anh vừa nói vừa cài những chiếc cúc áo trước ngực.
Sau khi kết thúc chuyến công tác 3 ngày 4 đêm ở Chicago, thay vì cùng mọi người bay về Seoul, anh và tôi dự định sẽ đến Boston. Đó là chuyến đi ngắn 2 ngày 3 đêm để thăm một cặp vợ chồng ân sư mà anh từng chịu ơn chăm sóc suốt 2 năm thời niên thiếu.
Từ Chicago đến Boston bay mất khoảng 2 tiếng 20 phút, ở Mỹ thì khoảng cách đó chẳng đáng là bao. Anh bảo đã lâu không đến thăm, nhân dịp này muốn ghé chào và hỏi tôi có thể đi cùng không. Được gặp gỡ những người quan trọng với anh, có cơ hội hiểu sâu hơn về anh thì tôi chẳng có lý do gì để từ chối. Hơn nữa, tôi cũng có chút mong chờ thầm kín về hành trình chỉ có hai người.
Cài xong khuy măng sét ở tay áo sơ mi, anh mặc chiếc quần tây của bộ tuxedo đã chọn trong số rất nhiều bộ suit, rồi bước qua trước mặt tôi đến trước gương toàn thân chỉnh trang lại. Đó là một bộ suit mang ấn tượng trẻ trung và thời thượng, nhấn mạnh bờ vai rộng, đường eo thon gọn và độ săn chắc của đôi chân dài hơn là vẻ cổ điển. Anh đã chuẩn bị gần xong. Qua khung cửa sổ đối diện bên kia giường, màn đêm Chicago đã buông xuống hoàn toàn, lấp lánh ánh vàng kim.
Anh lại đi lướt qua tôi, mở ngăn trên cùng của tủ ngăn kéo rồi chống tay lên hông. Anh nhìn lướt qua những chiếc cà vạt và khăn quàng được nhân viên chuyên trách sắp xếp ngay ngắn rồi nói:
“Sau khi Hopper qua đời, vợ ông là Josephine đã trao tặng toàn bộ các tác phẩm của ông mà bà sở hữu cho Bảo tàng Whitney ở New York. Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại New York và Bảo tàng Metropolitan cũng sở hữu những tác phẩm quan trọng của Hopper. Chà, nhắc đến New York thì… đó đúng là thành phố tối ưu để tiếp cận tác phẩm của các nghệ sĩ từ nhiều quốc gia và nhiều thời đại, không chỉ riêng Edward Hopper.”
Câu cuối cùng nghe cứ như lời quảng cáo cho New York, nhưng có vẻ anh không có ý gì đặc biệt.