Diamond Dust Novel (Bụi Kim Cương) - Chương 172
2. DD (Di Di)
Mất khoảng hai tiếng đồng hồ để đi dạo một vòng quanh Đại học Harvard. Dưới tiết trời thu trong trẻo giữa tháng Chín, hai chúng tôi thong thả tản bộ khắp nơi trong khuôn viên trường, nơi mang lại cảm giác giống một ngôi làng điền viên hơn là một trường đại học.
Tất nhiên là có rất nhiều người trông giống sinh viên, nhưng cũng không hiếm gặp những cư dân trong vùng ra ngoài tập thể dục hay đi dạo. Nhờ vào cấu trúc không phân chia ranh giới rõ ràng bằng tường hay rào chắn giữa trường đại học và khu vực bên ngoài mà nơi này mang lại cảm giác vô cùng thân thiện với cộng đồng, trái ngược hẳn với hình ảnh uy nghiêm và quyền lực mà cái danh hiệu trường đại học danh tiếng hàng đầu thế giới thường gợi lên.
Sau khi dùng bữa sáng cùng Marcus và Ellen, chúng tôi rời nhà họ vào khoảng 11 giờ trưa, ghé qua Bảo tàng Mỹ thuật Boston để chiêm ngưỡng các tác phẩm trong bộ sưu tập, bao gồm cả bức Room in Brooklyn của Edward Hopper, sau đó bắt xe buýt số 1 băng qua sông Charles để đến Harvard.
Đúng vậy, chúng tôi đã cùng nhau đi xe buýt. Để có một chuyến du lịch mang lại cảm giác gần gũi hơn với tôi, anh đã cố ý không chuẩn bị xe riêng ở Boston.
Mặc dù hôm qua khi từ Chicago đến Boston, chúng tôi đã đi bằng chuyên cơ.
Một chuyến đi kết hợp giữa xe buýt và chuyên cơ.
Anh nói rằng vì các chuyến bay nội địa ở Mỹ hầu hết đều không được trang bị tốt, kể cả ghế hạng nhất chứ đừng nói đến hạng thương gia, nên khi di chuyển trong nước Mỹ, anh thường sử dụng chuyên cơ.
Anh đã cố trấn an tôi rằng việc thuê chuyên cơ ở Mỹ khá phổ biến (theo lời anh thì giống như các công ty cho thuê xe hơi thường trực ở mỗi sân bay vậy) nên giá cả không “đắt như em nghĩ đâu”. Anh giải thích rằng dù không có tôi thì anh vẫn sẽ đi chuyên cơ, và miễn là trong giới hạn số người quy định thì một người hay hai người chi phí thuê vẫn như nhau, nên chẳng tốn thêm khoản nào vì tôi cả. Nhưng dù vậy, tôi vẫn không thể đón nhận chuyện đó một cách thoải mái được.
Sau khi đến sân bay như thế, tôi và anh bắt taxi đi thẳng đến khu Beacon Hill. Đó là nơi có ngôi nhà mà anh đã sống và học tập tại gia từ năm mười ba đến mười lăm tuổi, cũng là nhà của người được xem như ân sư, đã ở bên dìu dắt để anh có thể trở thành một Golden kim gần như hoàn hảo.
Marcus, một chuyên gia có uy tín toàn cầu về Pheromone, đặc biệt là Pheromone của Alpha, người đã dành nhiều năm nghiên cứu và giảng dạy tại trường đại học ở Boston, đang sống tại ngôi nhà đó cùng vợ là bà Ellen đã được 30 năm.
Marcus và Ellen thân thiện và đa cảm đúng như tưởng tượng của tôi, à không, còn hơn thế nữa. Họ thực lòng vui mừng chào đón anh, không phải vì xã giao hay lễ nghĩa. Những lời trách móc anh sao mấy năm rồi không đến thăm, ngược lại giống như đang nói lên niềm hạnh phúc khi được nhìn thấy gương mặt anh sau bao nhiêu năm xa cách.
Họ cũng dành cho tôi, người được anh giới thiệu là người yêu, một sự chào đón nồng hậu y như vậy. Họ giống như Jane từng nghe anh giới thiệu tôi là “người quan trọng”, cũng mỉm cười dịu dàng với tôi như thể đối xử với con trai mình vậy.
Chỗ nghỉ của chúng tôi tại Boston không phải là phòng suite của khách sạn 5 sao sang trọng, mà là nhà của Marcus và Ellen. Căn phòng ở cuối hành lang tầng 2, nhìn ra con hẻm trước nhà, nơi từng là phòng của anh khi còn là cậu thiếu niên mười mấy tuổi được họ giữ nguyên vẹn như ngày xưa.
Chiều hôm qua khi vừa đến nơi, chúng tôi đã thưởng thức bữa ăn do Marcus và Ellen chuẩn bị cùng rượu vang ngon, chuyện trò rôm rả cho đến hết ngày. Và hôm nay, tôi và anh có thể đi tham quan cho đến tận giờ ăn tối. Đây là khoảng thời gian riêng tư duy nhất chỉ có hai người trong chuyến đi Mỹ lần này.
Có lẽ do bộ trang phục không phải là những bộ suit đắt tiền hay phong cách smart casual thường thấy ở Seoul, hoặc cũng có thể do anh không đang cầm lái một chiếc sedan cao cấp hay ngồi ở ghế sau, mà trông anh trẻ hơn thường ngày rất nhiều, và còn có chút… ngông nghênh.
Anh mặc quần đen, giày đen, áo phông đen khoác thêm chiếc áo jacket da, đút tay vào túi sau quần hoặc túi áo khoác, lúc lại khoác tay lên vai tôi, ngay cả dáng đi và biểu cảm cũng có chút khác biệt so với mọi khi.
Khi kể cho tôi nghe giai thoại rằng nếu chạm vào mu bàn chân trái của bức tượng John Harvard thì con cháu sau này sẽ đỗ vào Harvard, và khi chạm tay vào phần mu bàn chân tượng đã bị bong tróc sơn đến mức bóng loáng, anh ghé sát vào tai tôi thì thầm: “Về Seoul phải chăm chỉ tạo ra con cháu để còn vào Harvard mới được,” một câu đùa đầy tinh quái.
Đứng trước bức tượng, tôi và anh đã cùng chụp bức ảnh selfie thứ hai trong đời. Trong khung hình, chúng tôi vẫn trông thật gượng gạo. Dù thoải mái và tự nhiên trước ống kính của người khác, nhưng có vẻ anh vẫn mãi không quen nổi với chế độ tự chụp. Nhìn bức ảnh vừa chụp xong, anh cười nhẹ một tiếng rồi đưa tay vò rối tóc tôi.
Sau khi kết thúc chuyến tham quan bằng màn chụp ảnh kỷ niệm đầy gượng gạo, chúng tôi ghé vào cửa hàng lưu niệm để mua quà. Tôi lén mỉm cười khi nhìn góc nghiêng của anh đang nói với vẻ chán chường rằng Boston cũng giống như Chicago, chẳng có gì gọi là đặc sản nên cứ mua đại mấy cái áo phông Harvard đi. Nếu thấy phiền thật thì không mua gì cũng được mà.
Cửa hàng với tấm biển hiệu COOP có quy mô cực lớn. Cảm giác như họ gắn logo Harvard lên mọi vật dụng thường ngày vậy. Anh có vẻ chẳng hề hứng thú và trông như chỉ muốn mua quà cho xong nghĩa vụ rồi đi ngay, bỗng dưng lại xúi tôi mặc thử chiếc áo hoodie màu xám có thêu chữ HARVARD màu gạch ở khu vực quần áo.
“Ừm… thấy sao ạ?”
Bước ra khỏi phòng thay đồ, tôi hỏi anh như vậy, nhưng đó là một chiếc áo phông cực kỳ cơ bản, ai mặc cũng hợp nên chẳng có gì để nhận xét là đẹp hay không.
Anh nghiêng đầu sang một bên vai nhìn tôi chằm chằm một lúc rồi đảo mắt, làm biểu cảm trêu chọc và thở dài nhìn lên trần nhà. Thấy tôi đứng im vì không hiểu phản ứng đó là sao, anh bước lại gần, vòng tay ôm lấy gáy tôi kéo sát lại rồi chạm trán mình vào trán tôi.
“Người ta lại tưởng anh đang hẹn hò với trẻ vị thành niên mất.”
“Đến mức đó sao…”
“Đến mức đó đấy.”
“Nếu không muốn thấy em bị người ta bắt đi thì mau cởi ra đi.”
Giọng anh trầm xuống, mắt nhìn quanh với vẻ nghiêm trọng, nhưng tôi biết đó là lời nói đùa.
Tôi vào phòng thay đồ và thay lại quần áo. Anh nhận lấy chiếc áo từ tay tôi, thay vì trả lại chỗ cũ thì lại bỏ nó vào giỏ mua sắm.
Có lẽ nhận ra ánh mắt thắc mắc của tôi, anh cầm một chiếc cốc sứ trên kệ trưng bày 3 tầng lên xoay qua xoay lại rồi giải thích:
“Ý anh là đừng mặc bây giờ thôi, chứ đâu có nói là không mua? Là do nhìn em trẻ quá, chứ không có ý bảo là em mặc không hợp.”
Thấy tôi lắc đầu cười khúc khích, anh cũng quay sang cười toe toét. Anh cứ cứ gỡ ra dán lại miếng nam châm hình logo Harvard trên cột sắt rồi nói:
“Mua gì đó cho anh chị em nữa chứ.”
“Áo phông, cốc sứ, sổ tay… và cả bút chì nữa, mua hết rồi mà.”
Tôi chỉ vào chiếc giỏ trên tay anh đã đầy ắp đồ, và trả lời.
“Không, ý anh là Bali.”
“……”
Chẳng hề cố ý nhưng ánh mắt tôi tự động hạ xuống thấp. Dù đang tận hưởng chuyến du lịch này nhờ sự thiện chí và quan tâm của anh, nhưng ngoài lòng biết ơn, không phải tôi hoàn toàn không cảm thấy áy náy hay áp lực. Dù không phải là tôi thì anh vẫn luôn rất hào phóng với những người xung quanh, đặc biệt là những người nhỏ tuổi hơn, nhưng những gì anh dành cho tôi đã vượt xa mức độ hào phóng, thiện chí hay tử tế thông thường. Cho dù chúng tôi là người yêu đi chăng nữa.
Thậm chí, anh còn đưa riêng cho tôi một khoản tiền tiêu vặt từ lúc ở Seoul để dùng cho cá nhân trong chuyến đi. Bằng số tiền đó, tôi đã mua bắp rang và cà phê cùng chị Yuni, ăn bánh muffin ở quán cà phê, trả phí vào cửa bảo tàng mỹ thuật và mua bình giữ nhiệt tặng anh Inwoo. Dùng tiền đó mua quà cho Morae và anh trai cũng được thôi, nhưng rốt cuộc đó vẫn là tiền của anh. Tôi đã cố gắng chi tiêu tiết kiệm nhất có thể với ý định sẽ trả lại phần còn dư cho anh.
“Seo Yihyun, chẳng phải chúng ta đang hẹn hò sao?”
Có lẽ anh đã nhìn thấu ý nghĩa sự im lặng của tôi. Anh ném miếng nam châm vào cột sắt như chơi phi tiêu rồi quay lại nhìn tôi. Sau đó, anh bước đến chỗ tôi đang đứng bám vào mép kệ trưng bày cốc sứ rồi khoác tay lên vai tôi.
“Không chỉ là hẹn hò đơn thuần… mà đã nói yêu nhau, còn là mối quan hệ đã bàn đến chuyện kết hôn nữa.”
Anh vừa nói vừa nhẹ nhàng cụng thái dương mình vào bên đầu tôi.
“À, chuyện kết hôn thì anh bị từ chối rồi.”
Tôi bật cười trước câu nói của ấy. Anh lại cúi đầu, ghé sát môi vào tai tôi thì thầm:
“Cái khoản 100 triệu won cỏn con đó, em sẽ sớm bù đắp được thôi.”
“……”
“Và rồi em sẽ được tự do khỏi anh.”
Anh thu lại cánh tay đang khoác trên vai tôi, bước lên trước, dừng lại trước bức tường treo đầy những chiếc móc khóa có gắn hình thú nhỏ xinh.
“Và kể cả trước khi bù đắp hết 100 triệu, nếu đến New York, em cũng có thể đi làm thêm mà.”
“…Như thế có được không ạ?”
Tôi bước sát lại gần, nắm lấy tay phải của anh và hỏi. Anh quay đầu lại, nhìn xuống như muốn rà soát từng đường nét trên khuôn mặt tôi. Lúc ấy tôi mới nhận thức được rằng đôi mắt mình đang sáng lên, khóe môi cũng đang mỉm cười. Anh liếc nhìn bàn tay đang bị tôi vô thức nắm lấy, rồi cầm con gấu bông trên móc khóa cọ cọ vào mũi tôi.
“Phản ứng còn tốt hơn cả lúc anh đề cập chuyện kết hôn, làm anh thấy hơi phiền lòng đấy.”
“……”
Anh cười rồi lùi lại, treo chiếc móc khóa về chỗ cũ.
“Em hỏi là có được hay không, nhưng đây không phải là vấn đề anh có cho phép hay không. Chắc ‘thầy Im’ cũng không phải kiểu người sẽ sai người theo dõi em đến tận New York hay bắt cóc đâu. Ở đó thì dù em có đi làm cũng sẽ không nguy hiểm.”
Tôi nhớ lại xem mình đã từng kể với anh chuyện bố của Morae được gọi là ‘thầy Im’ chưa, nhưng nghĩ lại, nếu là anh thì có lẽ đã tìm hiểu thêm về chuyện này để xử lý công việc chắc chắn rồi.
Sau khi thanh toán xong, bao gồm cả quà gửi cho Morae và anh trai, chúng tôi bước ra khỏi cửa hàng và lại bắt xe buýt qua sông Charles. Vẫn còn thời gian cho đến 7 giờ tối, giờ hẹn ăn tối cùng Marcus và Ellen, nên dù ngắn ngủi, chúng tôi quyết định dành trọn khoảng thời gian đó chỉ cho hai người.
“Có tồi tàn quá không?”
Anh chống tay lên bàn và hỏi.
“Giống nước Mỹ em từng thấy trên phim nên em thích lắm.”
Tôi cầm thực đơn chỉ vỏn vẹn một tờ giấy khổ tầm A4 viết chi chít chữ trên tay, nhìn quanh quán pub và trả lời.
Quán pub nằm trên tầng 2 của một tòa nhà ở góc phố trung tâm Boston này không có vẻ sành điệu hay cao cấp như những nhà hàng hay quán bar khác mà tôi từng đến cùng anh. Anh đưa tôi đến đây với lời gợi ý rằng đã đến Mỹ rồi thì cũng nên ghé thử một quán pub đậm chất Mỹ nhất xem sao. Tuy hơi cũ kỹ và bình dân nhưng bầu không khí lại vô cùng thoải mái, và tôi cảm nhận được thực tế rằng mình “đang ở Mỹ” rõ ràng hơn cả lúc ghé thăm các bảo tàng hay phòng tranh.