Bad Life Novel - Chương 11
Khi tôi lấy lại được ý thức thì đã là tối Chủ nhật rồi. Ngay khi vừa tỉnh giấc, một tiếng rên bật ra khỏi cổ họng mà chính tôi cũng không nhận ra. Tôi cố gắng nâng mí mắt nặng trĩu lên thì khẽ giật mình.
Simon đang ngồi trên chiếc ghế kéo lại sát bên giường, với tay lấy chiếc khăn trên trán tôi. Tôi thậm chí còn không biết là trên trán mình có đặt khăn. Simon cầm nó lên, lặng lẽ bước ra khỏi phòng.
Từ phía phòng khách bên ngoài cánh cửa mở hé, vọng vào tiếng trò chuyện khe khẽ. Một lát sau, Hugh xuất hiện ở ngưỡng cửa. Chỉ trong vài ngày cuối tuần ngắn ngủi, khuôn mặt cậu ta đã sạm đi vì nắng. Cậu bước vào, vẻ mặt lo lắng.
“Cuối cùng thì cậu cũng tỉnh rồi. Cậu ốm nặng lắm đấy.”
Hugh đứng ở cuối giường, tay vịn vào thanh sắt ở chân giường mà nói.
Tôi định đáp lời nhưng cổ họng nghẹn lại, không thốt được lời nào. Hugh nhanh nhẹn đưa cho tôi một cốc nước. Sau khi uống cạn một hơi, tôi mới cảm thấy cổ họng mình thông ra được đôi chút.
“Nghe George nói hôm qua cậu bị lạc trong rừng à? Có bị côn trùng cắn hay gì không?”
“Không… chỉ là đi loanh quanh một chút thôi…”
Giọng tôi khàn đặc, nghe như sắp tắt. Hugh có vẻ cũng giật mình vì giọng đó. Một khoảng lặng ngượng ngập thoáng qua, nhưng thay vì hỏi thêm, cậu ta chỉ nói:
“Cả ngày hôm nay Simon chăm cậu đấy.”
Tôi chỉ khẽ gật đầu mà không đáp. Hugh nhìn tôi với vẻ ái ngại, rồi ngập ngừng bảo tôi nên nghỉ ngơi, sau đó ra ngoài.
Thật sự là người tôi đau nhừ, toàn thân nhức mỏi, đầu thì choáng váng nặng nề. Dù đã là đầu mùa hè, nhưng lạnh đến mức nổi da gà. Vừa thò chân ra khỏi chăn, cả người lại rùng mình. Chỉ đi vào nhà vệ sinh thôi mà như thể toàn bộ sức lực đều bị rút cạn. Tôi chui lại vào chăn, kéo chăn lên tận cổ. Ngay cả cảm giác tấm ga chạm vào da cũng khiến tôi đau nhói.
Không lâu sau, Simon quay lại, vắt khăn lên cánh tay, bưng theo khay có súp và bánh mì. Tôi chỉ nằm im, nhìn cậu ta không nói gì. Simon đặt khay lên bàn, kéo ghế ngồi xuống, sau đó gấp chiếc khăn, nhẹ nhàng lau trán tôi. Cảm giác mát lạnh chạm vào da khiến đầu óc choáng váng của tôi dần trở nên tỉnh táo hơn một chút.
Simon nói:
“Ăn một chút đi. Nếu không muốn kiệt sức thì phải ăn.”
Thấy tôi không đáp, cậu ta lại nói:
“Thuốc cũng phải uống. Giờ cơn sốt đã hạ, nhưng có thể sẽ lại lên.”
Tôi vẫn im lặng. Simon nói tiếp:
“Tôi muốn giúp cậu.”
Giọng tên khốn này trầm và bình tĩnh.
“Hãy để tôi giúp cậu.”
Tôi đáp, giọng khản đặc xen lẫn run rẩy.
“Cậu đã phản bội tôi.”
“Tôi đã tin cậu.”
“Tôi vẫn như trước.”
Simon nói ngắn gọn, rồi nhìn tôi bằng ánh mắt sâu nghiêm nghị.
“Từ ngày đầu tiên chúng ta gặp nhau đến giờ, tôi vẫn luôn như thế.”
Tôi bật cười lạnh lẽo.
“Vậy thì ngay từ đầu cậu đã lừa tôi rồi.”
Simon nói:
“Tôi luôn thật lòng với cậu.”
“Đừng chơi chữ nữa.”
Tôi gằn giọng dữ tợn.
“Khốn kiếp… tôi thật sự đã tin cậu, đồ khốn! Tôi nghĩ cậu là…”
…là người đứng về phía tôi.
Tôi nuốt lại phần cuối câu nói, ngẩng đầu nhìn Simon. Một ý nghĩ bất chợt lóe lên trong đầu tôi. Không biết cậu ta đã trải qua chuyện này bao nhiêu lần rồi? Những người đến trước tôi hẳn ai cũng từng nói cùng một câu trong giây phút này: Tôi thật sự tin cậu. Có lẽ niềm vui của Simon chính là ở đó. Nếu niềm vui của Jerome là được đấu đá và chơi trò quyền lực với tôi, thì niềm vui của Simon có lẽ là…
Simon lại nói:
“Tôi muốn giúp cậu.”
Tôi không nói thêm gì nữa, chỉ lặng lẽ ngồi dậy. Simon gỡ khăn khỏi trán tôi rồi mang khay thức ăn lại. Tôi ăn hết súp và bánh mềm, ngoan ngoãn uống thuốc. Uống xong, cơn buồn ngủ lập tức tràn đến. Cảm giác buồn ngủ ấy tiến lại chậm rãi, rồi đột ngột trùm xuống người tôi nặng nề. Tôi lại chìm vào giấc ngủ sâu.
Phải đến ba ngày sau, cơ thể tôi mới dần hồi phục. Sáng thứ Tư, tôi có thể tắm rửa và đến trường. Một vài thầy cô và bạn học hỏi thăm. Dù má có hơi hóp lại, nhưng tôi đã hoàn toàn bình phục, tất cả là nhờ sự chăm sóc tận tụy của Simon. Suốt mấy ngày liền, cậu ta đều mang ba bữa ăn lên tận giường cho tôi, ban đêm gần như không ngủ để trông chừng. Khi tôi toát mồ hôi lạnh, Simon thay ga giường, lau người tôi bằng khăn ấm.
Tôi để mặc cậu chạm vào người mình. Simon bôi thuốc lên vết thương, thay quần áo cho tôi. Tôi tò mò muốn biết tên này sẽ làm đến đâu, sẽ đi xa đến mức nào — và kẻ điên ấy thật sự chăm sóc tôi như thể đang chơi trò búp bê.
Chúng tôi ở rất gần nhau về mặt thể xác, nhưng không có lấy một lời trao đổi. Simon vẫn lạnh lùng, ít nói như thường ngày, còn tôi thì cũng không mở miệng nữa. Không cần lời nói, mọi thứ đều được đọc ra qua ánh mắt, qua những biểu cảm nhỏ nhất.
Khi Simon “chơi trò búp bê” với tôi, thật kỳ lạ là chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Hai thằng nhóc từng nói sẽ thay nhau cưỡng hiếp tôi dường như đã quên sạch lời đó. Simon mỗi ngày đều chạm vào cơ thể tôi, nhưng tuyệt nhiên không toát ra chút không khí tình dục nào, còn Jerome thì suốt mấy ngày liền không hề xuất hiện trước mắt.
Những vết thương mà Jerome để lại cũng nhanh chóng hồi phục, giờ ngoài mấy vết roi còn in trên lưng thì chẳng có chỗ nào đặc biệt đau nữa. Vết roi trên lưng vẫn nhức nhối, nhưng cũng không đến mức khiến tôi cử động khó khăn. Nhờ mấy ngày trôi qua yên ổn, không va chạm gì với cả Jerome lẫn Simon, tôi cuối cùng cũng có thời gian để suy nghĩ.
Một điều tôi phải thừa nhận là bản thân đã trở thành con thỏ trong trò săn mồi của họ. Lúc này, Jerome và Simon đang nắm phần chủ động. Chúng như đang dồn tôi vào góc tường, giống như người ta lùa thỏ, và có vẻ chúng còn lấy làm đắc ý với điều đó. Khi đã bị bọn họ chiếm thế thượng phong như vậy, cái vòng xoáy của trò chơi săn đuổi này sẽ chẳng bao giờ chấm dứt. Đúng như George từng nói, tôi chẳng biết gì cả.
Jerome không có mục đích. Hắn chọn tôi, hành hạ tôi, tất cả chỉ là để tiêu khiển. Với hắn, đây chỉ là một thú vui.
Jerome thích đối đầu với tôi. Hắn thích khi tôi trả đũa, rồi hắn lại báo thù, và cứ thế, vòng lặp ấy khiến hắn khoái trá. Hắn sẽ không dừng lại cho đến khi tất cả thật sự kết thúc. Mà “kết thúc” nghĩa là — hoặc một trong hai chúng tôi rời khỏi ngôi trường này, hoặc… chết. Chỉ khi đó, cái trò săn đuổi bệnh hoạn này mới chịu khép lại.
Tôi không định ngoan ngoãn mà nhảy múa theo ý hắn. Nhưng ván cờ đã mở, và chuyện dẹp hay không dẹp bàn cờ này chẳng còn do tôi quyết định nữa. Jerome đã từng muốn giết tôi, Simon đã phản bội tôi. Vậy thì tôi sẽ trả thù cả hai.
Mấy lần đánh nhau vặt trước đó như ném bóng vào đầu hắn, hay giằng lấy roi để làm hắn nhục nhã… những thứ trẻ con ấy đã kết thúc từ tối thứ Bảy ở “Kelly”. Nếu Jerome đã định giết tôi, thì để cho công bằng, tôi cũng phải giết hắn. Huống hồ chính vì sự phản bội của Simon mà Jerome suýt chút nữa đã thành công. Thế thì tôi cũng phải giết Simon.
Tôi đã sắp xếp sẵn thứ tự rồi. Trước hết là Simon, kẻ không biết sợ, vẫn thản nhiên ngủ cùng một phòng với tôi mỗi đêm.
Từ ngày bình phục, tôi không ăn chung với Simon nữa. Tôi đi ăn tối với George. Vì George lúc nào cũng bận bịu với mấy công việc gì đó trên máy tính (chẳng hiểu sao cậu ta không đi học mà ngày nào cũng bận như thế), nên phải gần chín giờ tối chúng tôi mới xuống nhà ăn. George người thì gầy nhưng ăn khỏe, cậu ta cắt từng miếng thịt bò, còn tôi thì chỉ gẩy qua loa đĩa salad, uống thêm chút nước hoa quả. Sau cơn ốm nặng, tôi vẫn chưa lấy lại được cảm giác thèm ăn.
George càu nhàu:
“Phải ăn nhiều thì mới chóng khỏe được chứ.”
Cậu ta vừa nói vừa cắt thịt, rồi thêm một câu:
“Khỏe lại thì còn đánh nhau với Jerome nữa chứ.”
Ánh mắt George khi nói câu đó lại nhìn về phía sau vai tôi. Tôi quay lại, thấy Jerome đang ngồi một mình ở bàn đối diện. Không ai ngồi cùng, hắn chỉ có một mình, trước mặt là đĩa cá, và đang nhìn tôi bằng nụ cười nhàn nhạt. Khi ánh mắt chạm nhau, hắn nháy mắt tinh nghịch. Đồ điên.
Thay vì nổi khùng, tôi cũng mỉm cười đáp lại. Có vẻ hắn không ngờ tôi lại phản ứng như vậy, nên thoáng chốc đôi mắt tròn xoe, rồi nở cười ngượng ngập — cái kiểu cười khiến người ta muốn nôn. Tôi lập tức quay lại với George. Hắn dường như đã quan sát hết cảnh đó, nheo mắt lại như có gì muốn nói.
“Tại sao? Có gì muốn nói thì nói đi.”
Tôi cau mày, giọng cộc cằn.
George nhai xong miếng thịt, nuốt hết mới nói:
“Không ngờ hai người trông hợp nhau đấy.”
“…Gì cơ?”
“Cậu với Jerome, hai người nhìn có vẻ ăn ý mà. Cả tính cách cũng giống giống.”
Tôi định phản bác, nhưng cứng họng. Miệng há ra rồi lại ngậm lại, cuối cùng chỉ thở dài:
“Thôi, khỏi nói. Salad cũng cho cậu luôn đấy.”
George chẳng khách sáo, kéo đĩa salad về phía mình, ăn sạch sành sanh. Sau bữa ăn, có lẽ thấy áy náy nên cậu ta đi pha cho tôi một tách trà đen.
Chúng tôi ngồi ngoài hiên tầng một, duỗi chân thư thả, nhâm nhi trà. George nhìn tòa nhà cổ khổng lồ vốn là tu viện cũ rồi đột nhiên nói:
“Jerome sẽ nuốt chửng cậu đấy.”
Tôi nhấp một ngụm trà sau đó đáp lại:
“Nghe cậu nói cứ như biết hết mọi chuyện vậy.”
George nhún vai:
“Thực ra thì tôi biết thật.”
Tôi quay sang nhìn:
“Vậy cậu cũng biết chuyện Simon với Jerome là cùng một phe à?”
“Biết chứ.”
Tôi không trách vì sao cậu không nói trước, chỉ hỏi:
“Tôi không phải người đầu tiên, đúng không?”
Lần này George nhìn thẳng vào tôi, đôi mắt màu nhạt như muốn xuyên thấu da thịt.
“Cậu là người thứ bảy.”
Thay vì rùng mình, tôi lại bật cười. Người thứ bảy, ha! Thật tuyệt vời. Đến lúc đó tôi mới hiểu những lời George nói khi chúng tôi dạo quanh “Kelly” tối thứ Bảy rằng “sự thờ ơ cũng là một hình thức bạo lực.” “Kẻ bàng quan” mà cậu ta nhắc đến chính là bản thân. Chính vì George không nói gì, chỉ đứng nhìn, mà tôi đã bị Jerome và Simon lừa xoay vòng cho đến tận cửa địa ngục.