Bad Life Novel - Chương 18
Đêm hôm đó tôi không trở về ký túc xá mà ở lại thư viện trường. Có lẽ vì kỳ thi nên dù đã quá nửa đêm vẫn còn khá nhiều sinh viên. Với bấy nhiêu ánh mắt dõi theo, chắc hẳn sẽ không có chuyện tôi bỗng nhiên bị túm gáy rồi quăng xuống sàn đá. Tôi giả vờ ngồi chen giữa đám sinh viên khác để học, sau đó lặng lẽ chuồn vào phòng lưu trữ hồ sơ.
Phòng lưu trữ vốn chủ yếu để nhân viên hay giáo viên sử dụng, nên hiện tại đèn đã tắt. Tôi mang theo chiếc đèn điện cầm tay, bước vào từ cửa phòng. Ngôi trường này không chú trọng lắm vào việc số hoá. Bởi lẽ nằm biệt lập giữa rừng sâu, nếu chẳng may xảy ra thiên tai khiến điện bị cắt thì chẳng còn cách nào xoay sở được. Vì thế, các hồ sơ ghi chép bằng tay lại cực kỳ tỉ mỉ, trong số đó có sổ ghi chép ra vào ký túc xá.
Thông thường, khi ra vào ký túc xá thì không cần ghi chép gì, nhưng khi nhập học hay rời đi thì nhất định phải điền tên và ký xác nhận. Ngày đầu tiên tôi đến trường, chính nhân viên tên Anna, người đưa cho tôi chiếc khăn choàng cổ đã cùng tôi hoàn tất giấy tờ trong quyển sổ đó. Vì vậy, việc tìm ra tên những người ở trước tôi sẽ không quá khó. Một khi nắm được tên thì tôi tin rằng mình có thể tìm ra cách xử lý tiếp theo.
Tôi chậm rãi lướt qua những giá sách cao trong phòng lưu trữ, cuối cùng cũng tìm thấy quyển sổ mình cần. Quyển sổ được xếp cuối cùng có ghi cả tên tôi. Bởi mỗi khi lập bản gốc, họ luôn làm thêm một bản sao để lưu riêng trong phòng hồ sơ. Tôi kéo ra hai ba quyển sổ trước đó rồi ngồi bệt xuống sàn.
Tôi treo chiếc đèn điện lên giá sách và mở cuốn cuối cùng ra trước, bàn tay hơi run lên vì phấn khích. Trang cuối cùng là hồ sơ của tôi. Tôi lật lại trang trước. Một cậu nhóc tên Tim gì đó… Phòng 301, Tòa A… rời ký túc. Thomas… Phòng 102, Tòa C, nhập. Phòng 102, Tòa A, rời. Matt, Phòng 202, Tòa B, nhập… Tôi tiếp tục lật phành phạch sang phía trước, thì tay bỗng khựng lại. Một luồng ớn lạnh rùng rợn chạy dọc gáy khiến tôi bất giác rùng mình.
■■■■■■, Phòng 401, Tòa B, rời.
Tên đã bị xoá. Người ta dùng mực đen bôi kín nên không thể đọc được. Tôi vội vàng lật sang trang trước.
■■■■■■, Phòng 401, Tòa B, nhập.
Cả tên trong hồ sơ nhập và rời đi đều bị bôi mực đen. Sau gáy tôi lạnh toát. Tôi lục tung ba quyển sổ, kết quả tìm kiếm các hồ sơ cho đến mùa xuân năm ngoái cho thấy có tổng cộng mười hai trang bị xóa tên. Hồ sơ nhập và rời đi của sáu người đều bị xóa, chỉ có một người nhập Phòng 401, Tòa B mà hồ sơ chưa bị xóa tên.
Raymond. Đó chính là tên tôi.
Những sự thật mà tôi đã tìm ra được sau khi lục lọi sổ đăng ký suốt đêm như sau:
- Thời điểm họ nhập học
1-a. Jerome: Mùa xuân năm 97 (19 tuổi). Phòng 402, Tòa B. Trước đó, không ai từng ở phòng B402 cả.
1-b. Simon: Mùa đông năm 96 (18 tuổi). Phòng 402, Tòa B. Người ở cùng phòng với cậu ta khi ấy chắc chắn là tiền nhiệm đầu tiên của tôi.
1-c. Hugh: Mùa xuân năm 97 (19 tuổi). Phòng 402, Tòa B. Ngày nhập học trùng khớp với Jerome. Có thể họ đã quen biết nhau từ trước khi vào trường.
1-d. George: Mùa thu năm 97 (19 tuổi). Phòng 402, Tòa B. Việc tên George không bị xoá cho thấy khả năng lớn cậu ta không phải tiền nhiệm của tôi. Nếu George thực sự có liên quan, thì cậu ta sẽ là người gia nhập nhóm muộn nhất. Thế nhưng khả năng cậu ta từng là tiền nhiệm của tôi vẫn không thể hoàn toàn phủ nhận.
- Thời điểm nhập – rời của những nạn nhân
2-a. “Người tiền nhiệm đầu tiên”: Nhập học mùa hè năm 96, rời đi mùa xuân năm 97. Cậu ấy đã ở ngôi trường này trước cả Simon, nhưng rồi cũng rời đi. Đó là sau khi Jerome và Hugh nhập học được đúng một tháng.
2-b. “Tiền nhiệm thứ hai”: Nhập học mùa xuân năm 97, rời đi mùa xuân năm 97. Người này thậm chí còn chưa trụ nổi một tháng.
2-c. “Tiền nhiệm thứ ba”: Nhập học mùa hè năm 97, rời đi mùa hè năm 97. Cậu ta chịu đựng được một tháng rưỡi.
2-d. “Tiền nhiệm thứ tư”: Nhập học mùa thu năm 97, rời đi mùa thu năm 97. Ở được đúng nửa tháng.
2-e. “Tiền nhiệm thứ năm”: Nhập học mùa thu năm 97, rời đi mùa đông năm 97. Người duy nhất chịu đựng được trọn một mùa.
2-f. “Tiền nhiệm thứ sáu”: Nhập học mùa xuân năm 98, rời đi mùa xuân năm 98. Trụ được 3 tuần.
2-g. Raymond: Tôi là người thứ bảy. Tôi nhập học vào tháng 4 mùa xuân năm 98, và đã trải qua mùa hạ tháng 6. Nhìn những kẻ chỉ trụ được nửa tháng hay ba tuần, tôi hiểu rằng cách họ bị tra tấn và cách tôi bị tra tấn hẳn có sự khác biệt.
Đó là tất cả những gì tôi có thể moi ra từ quyển sổ lưu trữ. Thông tin về các tiền nhiệm đã bị xoá sạch sẽ. Nơi xuất thân, ngày tháng năm sinh, quốc tịch… tất cả đều bị bôi đen nên đào sâu thêm nữa cũng vô ích. Dẫu vậy, vẫn có một chút thu hoạch. Ít nhất thì tôi đã lần ra được một sự thật về Jerome và đám của hắn, điều mà trước đây tôi hoàn toàn không biết.
Bọn chúng ngay từ khi nhập học vào mùa xuân năm 97, đã bắt đầu những trò đó suốt hơn một năm trời. Chúng có kinh nghiệm áp đảo nên vượt trội hơn tôi về thủ đoạn là điều hiển nhiên. Còn những tiền nhiệm với tên bị xoá sạch kia chính là vật hiến tế của chúng.
Liệu giờ này chúng vẫn đang tìm kiếm vật thí nghiệm để nghiên cứu xem trò săn mồi có thể kéo dài bao lâu? Hay chúng đang kiếm một “thú cưng” để thuần hoá, để chăm bẵm nuôi dưỡng? Tôi là đối tượng thí nghiệm hay là “thú cưng” đầu tiên của chúng? Dù thế nào đi nữa, chỉ có một điều rõ ràng: thời gian chúng bỏ ra cho tôi đã dài hơn gấp bội so với các tiền nhiệm. Phải tìm ra quy luật. Đó cũng là một nhiệm vụ mà tôi buộc phải hoàn thành.
Sau khi ghi lại những điều đã tìm ra vào một tờ giấy, tôi rời khỏi phòng lưu trữ hồ sơ. Ngồi quá lâu một mình trong căn phòng phủ bụi khiến đầu óc tôi quay cuồng, cổ họng cũng khô khốc. Bước ra ngoài, tôi đi về phía quán cà phê mở cửa 24/24 trong trường. Nhìn đồng hồ thì đã gần 4 giờ sáng. Trong quán có vài sinh viên mệt mỏi vì học hành đang ngồi nhâm nhi cà phê, trò chuyện rì rầm.
Tôi không muốn uống trà, thay vào đó lại lấy một lon coca. Khi vừa xoay người lại, tôi trông thấy George đang ngồi ở góc quán. Cậu ta chiếm một chỗ ngồi khuất, trên bàn đặt chiếc laptop. Ngay cả khi ánh mắt chạm nhau, tên này cũng không tỏ ra bất ngờ mà cứ như đã dõi theo tôi từ đầu.
Tôi mang theo lon coca và chiếc cốc đựng đá, rồi ngồi xuống đối diện cậu . George đang uống cà phê, đôi mắt xanh lơ ánh lên vẻ lạnh lẽo khi mở lời.
“Toàn bộ lốp xe đều bị xì hơi rồi.”
George nói.
“Tôi đã biết từ trước khi cậu ra ngoài.”
Tôi rót coca vào cốc đá.
“Vậy cậu đã tìm ra thủ phạm?”
George nhíu mày nhìn cốc coca một thoáng, rồi đáp ngay sau đó.
“Tìm ra rồi.”
Cậu ta gõ vài cái lên bàn phím rồi xoay máy tính xách tay về phía tôi. Trên đoạn ghi hình CCTV hiện rõ bóng Simon.
“Tự tay làm xì hết chừng đó lốp, chắc cũng khổ nhỉ.”
Tôi cất giọng lạnh lùng.
“Vậy cậu đã báo với nhà trường chưa?”
“Tất nhiên là không.”
George lại xoay màn hình về phía mình.
“Tôi sẽ không nhúng tay vào bất cứ chuyện gì của Jerome hay bọn chúng đâu.”
Trong những tình huống như thế này, George khác hẳn với Jerome, Simon, và Hugh. Ba kẻ đó giấu kín mục đích của mình với tôi, cho đến khoảnh khắc chúng chủ động lật bài. Chúng thích thú nhìn con mồi bị lừa phỉnh, rồi lấy giây phút phơi bày chân tướng làm cao trào.
Còn George thì ngược lại, cậu ta thẳng thắn thừa nhận rằng bản thân biết hết mọi chuyện đang xảy ra với tôi, thậm chí còn nắm trong tay con dao có thể khiến Simon khốn đốn, vậy mà lại tuyệt đối không hề chủ động hành động. Mặc dù rõ ràng là cậu ta có thể giúp tôi. Tôi không ngừng tự hỏi, sự thờ ơ của George rốt cuộc bắt nguồn từ đâu.
Việc kết luận George như kẻ địch vẫn khiến tôi thấy không chắc chắn. George là một nhân vật đầy bí ẩn. Nếu tôi phải tung ra một cái bẫy, liệu có cần lừa cậu ta luôn không? Có nên coi George là đối thủ, hay kéo về phe mình? Câu trả lời khiến tôi lúng túng.
Nhưng ngẫm lại những cuộc trò chuyện với George từ trước đến giờ, tôi nhận ra chẳng cần thiết phải bận tâm, George chưa bao giờ né tránh câu hỏi.
“Tại sao?”
Thế nên tôi thẳng thắn hỏi.
“Bọn chúng muốn tôi chết à?”
George lập tức đáp.
“Jerome thì không giết ai cả.”
Tôi nhận ra khoảng trống ẩn sau lời nói đó.
“Hugh hoặc Simon thì giết, đúng không?”
George không trả lời, chỉ nhìn tôi bằng đôi mắt xanh biếc, rồi bất ngờ mỉm cười nhạt.
“Trả lời câu hỏi của cậu chẳng khó gì, Raymond. Nhưng tôi không có nghĩa vụ phải trả lời.”
Tôi nhạy bén hiểu ngay ẩn ý phía sau lời đó.
“Nếu cậu cũng muốn hỏi thì cứ hỏi đi.”
George lập tức hỏi lại.
“Mục đích của cậu là gì? Sống sót để trốn chạy hèn nhát? Hay là…”
Đôi mắt cậu ta sáng lên, trong đó lấp loé một khát vọng kỳ dị.
“Cho dù bị bọn chúng giết, thì vẫn trả thù tàn nhẫn trước khi chết?”
Tôi nhìn George, sự hăng hái méo mó kia chẳng làm tôi mảy may dao động.
“Sống sót là nhục nhã, còn chết mới là vinh quang, ý cậu là thế hả?”
Tôi nhìn trân trân gương mặt không hé một kẽ hở nào của George rồi tiếp lời.
“Muốn tôi chọn một trong hai ư? Sai rồi, George. Sống sót mới là kẻ thắng.”
George chỉ đảo cặp mắt xanh không nói gì.
“Jerome không giết ai, không có nghĩa là tôi cần phải giữ tay sạch sẽ như hắn.”
Lần đầu tiên, gương mặt không chút sơ hở của George rạn vỡ. Dù thoạt nhìn vẫn chẳng khác thường ngày, tôi vẫn nhận ra cậu ta đã đánh mất bình tĩnh. Cả người cậu cứng đờ như tượng đá, không nhúc nhích lấy một sợi lông. Đôi mắt xanh nhạt của George khẽ run lên trong cơn hỗn loạn.
Tôi giả vờ nhìn thẳng vào cậu ta cho ra vẻ bình thản nhưng thực ra trong lòng kinh ngạc. Đây là lần đầu tiên tôi thấy George mất bình tĩnh. Tên này vốn luôn giữ thái độ mỉa mai và lý trí, thản nhiên quan sát mọi sự xảy ra. Việc đồng cảm, cuốn vào cảm xúc là điều George cực kỳ tránh né, vậy mà giờ đây đôi mắt ấy đang run rẩy nhìn tôi. Nhưng đó không phải cơn giận, nếu nhìn kỹ thì đó chỉ là sự kích động tột độ. George nói.
“Nếu cậu giết Jerome đi…”
Giọng George khẽ rung.
“Thật sự thành công thì… tôi sẽ đưa cậu ra khỏi đây.”
Tôi cười nhạt chế giễu George.
“Sao tôi tin được? Cậu có chứng minh được rằng mình không phải kẻ phản bội như Simon hay Hugh không?”